7 bệnh chủ yếu do vi khuẩn gây ra
Vi khuẩn là những vi sinh vật nhỏ tồn tại tự nhiên trong cơ thể và môi trường và điều đó có thể hoặc không gây bệnh. Vi khuẩn gây bệnh được gọi là vi khuẩn gây bệnh và có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua việc ăn thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm, tiếp xúc tình dục không được bảo vệ hoặc qua đường thở, ví dụ.
Bệnh do vi khuẩn chủ yếu được điều trị bằng việc sử dụng kháng sinh, phải được sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ để ngăn ngừa sự xuất hiện của vi khuẩn đa kháng, chịu trách nhiệm cho nhiễm trùng nghiêm trọng hơn và điều trị phức tạp hơn.
Bệnh chính do vi khuẩn
1. Nhiễm trùng tiết niệu
Nhiễm trùng đường tiết niệu là một trong những bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất do vi khuẩn gây ra, và nó có thể xảy ra do mất cân bằng hệ vi sinh vật sinh dục, hoặc do thực tế là đi tiểu, không thực hiện vệ sinh thân mật đầy đủ, uống ít nước trong ngày hoặc bị sỏi thận chẳng hạn.
Có một số vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng đường tiết niệu, những vi khuẩn chính là Escherichia coli, Proteus sp., Providencia sp. và Morganella sppGiáo dục
Triệu chứng chính: Các triệu chứng chính liên quan đến nhiễm trùng đường tiết niệu là đau và rát khi đi tiểu, nước tiểu đục hoặc có máu, sốt thấp và dai dẳng, thường xuyên đi tiểu và cảm thấy không thể làm trống bàng quang.
Cách điều trị: Việc điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu được bác sĩ chỉ định khi có triệu chứng và vi sinh vật được xác định, và việc sử dụng thuốc chống vi trùng, chẳng hạn như Ciprofloxacino, thường được chỉ định. Tuy nhiên, khi không có triệu chứng, bác sĩ có thể chọn không thực hiện điều trị bằng kháng sinh để ngăn ngừa sự xuất hiện của vi khuẩn kháng thuốc..
Cách phòng ngừa được thực hiện: Việc ngăn ngừa nhiễm trùng tiết niệu được thực hiện bằng cách kiểm soát các nguyên nhân. Vì vậy, điều quan trọng là phải thực hiện vệ sinh thân mật đúng cách, tránh giữ nước tiểu trong một thời gian dài và uống ít nhất 2 lít nước mỗi ngày, ví dụ.
2. Viêm màng não
Viêm màng não tương ứng với tình trạng viêm của các mô xung quanh não và tủy sống, màng não và có thể được gây ra bởi một số loài vi khuẩn, những người chính là Streptococcus pneumoniae, Mycobacterium tuberculosis, Haemophilusenzae và Neisseria meningitidis, có thể có được thông qua dịch tiết từ những người được chẩn đoán mắc bệnh.
Triệu chứng chính: Triệu chứng viêm màng não có thể xuất hiện khoảng 4 ngày sau khi dính màng não, và có thể bị sốt, nhức đầu và khi di chuyển cổ, xuất hiện các đốm tím trên da, rối loạn tâm thần, mệt mỏi quá mức và cứng cơ ở cổ.
Cách điều trị: Việc điều trị viêm màng não thường được thực hiện trong bệnh viện, để bác sĩ có thể đánh giá sự tiến hóa của người đó và ngăn ngừa các biến chứng. Vì vậy, cần phải sử dụng kháng sinh, theo các vi khuẩn có trách nhiệm, và việc sử dụng Penicillin, Ampicillin, Cloramphenicol hoặc Ceftriaxone, ví dụ, nên được sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ, có thể được chỉ định..
Cách phòng ngừa được thực hiện: Phòng ngừa viêm màng não nên được thực hiện chủ yếu thông qua tiêm vắc-xin chống viêm màng não, nên được thực hiện khi còn nhỏ. Ngoài ra, điều quan trọng là những người bị viêm màng não phải đeo khẩu trang và tránh ho, nói chuyện hoặc hắt hơi xung quanh những người khỏe mạnh để tránh lây nhiễm. Tìm ra loại vắc-xin bảo vệ chống viêm màng não.
3. Bệnh lây truyền qua đường tình dục
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục, hay STDs, là những bệnh có thể mắc phải qua quan hệ tình dục không được bảo vệ, cho dù là âm đạo, miệng hay hậu môn. STD phổ biến nhất do vi khuẩn gây ra là Chlamydia, gây ra bởi Chlamydia trachomatis, Bệnh lậu, nguyên nhân là do Neisseria gonorrhoeae, và giang mai, gây ra bởi vi khuẩn Treponema pallidum.
Triệu chứng chính: Nói chung, các triệu chứng của bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể xuất hiện vài ngày hoặc vài tuần sau khi có hành vi nguy hiểm, với sự xuất hiện của vết loét ở vùng sinh dục, tiết dịch âm đạo hoặc dương vật, đau hoặc chảy máu khi tiếp xúc thân mật, đau và rát vào thời điểm đi tiểu và đau bụng chẳng hạn. Ngay khi các triệu chứng này xuất hiện, nên tham khảo ý kiến bác sĩ tiết niệu hoặc bác sĩ phụ khoa để chẩn đoán bệnh và bắt đầu điều trị.
Cách điều trị: Việc điều trị STD được bác sĩ khuyên dùng theo bệnh và thường liên quan đến việc sử dụng kháng sinh. Ví dụ, trong trường hợp Chlamydia, bác sĩ có thể khuyên bạn nên sử dụng Azithromycin hoặc Doxycycline, trong khi ở bệnh lậu, việc sử dụng Azithromycin hoặc Ceftriaxone có thể được chỉ định và trong Syphilis Penicillin hoặc Erythromycin.
Ngoài ra, trong quá trình điều trị, người bệnh nên tránh quan hệ tình dục và điều trị cũng nên được thực hiện bởi đối tác, ngay cả khi không có triệu chứng.
Cách phòng ngừa được thực hiện: Cách chính để ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục là sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, vì điều này tránh tiếp xúc trực tiếp giữa màng nhầy sinh dục và giảm nguy cơ nhiễm trùng bởi vi khuẩn, ký sinh trùng và virus..
4. Bệnh phong
Bệnh phong, còn được gọi là bệnh phong, là một bệnh gây ra bởi vi khuẩn Mycobacterium leprae và điều đó có thể lây truyền qua tiếp xúc với dịch tiết mũi của những người mắc bệnh phong, chủ yếu là.
Triệu chứng chính: Vi khuẩn này có một tiền đề cho hệ thống thần kinh và có thể gây tê liệt cơ bắp, ví dụ. Tuy nhiên, các triệu chứng đặc trưng nhất của bệnh phong là các tổn thương hình thành trên da, xảy ra do sự hiện diện của vi khuẩn trong máu và trên da. Do đó, các triệu chứng đặc trưng nhất của bệnh phong là khô da, mất cảm giác và sự hiện diện của các tổn thương và vết thương ở bàn chân, mũi và mắt, có thể dẫn đến mù lòa..
Cách điều trị: Điều trị bệnh phong phải được bác sĩ truyền nhiễm chỉ định ngay khi chẩn đoán được thực hiện để có cơ hội chữa khỏi bệnh. Vì vậy, điều trị thường được thực hiện với các loại thuốc khác nhau để loại bỏ vi khuẩn và ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh và sự xuất hiện của các biến chứng. Các loại thuốc được chỉ định nhiều nhất là Dapsone, Rifampicin và Clofazimine, nên được sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Ngoài ra, do các dị tật có thể phát sinh, có thể cần phải thực hiện các thủ tục để điều chỉnh và thậm chí theo dõi tâm lý, vì những người mắc bệnh phong có thể bị phân biệt đối xử do ngoại hình của họ. Hiểu cách điều trị bệnh phong được thực hiện.
Cách phòng ngừa được thực hiện: Hình thức phòng ngừa bệnh phong hiệu quả nhất là phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu và bắt đầu trị liệu ngay khi chẩn đoán được thiết lập. Bằng cách này, có thể ngăn chặn sự xuất hiện của các triệu chứng và biến chứng và sự lây lan của người khác..
5. Nhiễm trùng hô hấp
Ho gà, lao và viêm phổi là những bệnh về đường hô hấp do vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường thở và tồn tại trong phổi, phế nang hoặc phế quản dẫn đến các triệu chứng nhiễm trùng. Các vi khuẩn gây ra các bệnh này là chủ yếu, Bordetella ho gà, Mycobacterium tuberculosis và Streptococcus pneumoniae.
Triệu chứng chính: Các triệu chứng chính liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp là chảy nước mũi, ho liên tục, khó chịu, sốt, nhức đầu và khó thở chẳng hạn. Ví dụ, trong trường hợp ho gà, triệu chứng đặc trưng nhất của bệnh này là cơn ho trong đó người bệnh khó thở và dẫn đến âm thanh chói tai như tiếng rít..
Trong trường hợp bệnh lao, ho thường xuyên là một trong những triệu chứng đặc trưng nhất, trong hầu hết các trường hợp, bài tiết hoặc sự hiện diện của máu.
Cách điều trị: Điều trị thay đổi theo loại nhiễm trùng, với kháng sinh, chẳng hạn như Azithromycin, Clarithromycin và Erythromycin, ví dụ, nên được sử dụng theo khuyến nghị của bác sĩ, cho bệnh ho gà..
Điều trị bệnh lao được tiến hành liên tục, nghĩa là bác sĩ phổi hoặc bệnh truyền nhiễm chỉ ra sự kết hợp của Rifampicin, Isoniazid, Pyrazinamide và Etambutol trong khoảng 6 tháng hoặc cho đến khi bệnh được chữa khỏi. Ngoài ra, người được điều trị bệnh lao vẫn được cách ly trong 15 ngày đầu điều trị, vì anh ta vẫn có thể truyền vi khuẩn cho người khác..
Trong trường hợp viêm phổi, bác sĩ thường chọn sử dụng kháng sinh để loại bỏ tác nhân gây nhiễm trùng, chẳng hạn như Amoxicillin hoặc Azithromycin, ngoài việc nghỉ ngơi.
Cách phòng ngừa được thực hiện: Việc ngăn ngừa nhiễm trùng đường hô hấp có thể được thực hiện thông qua các biện pháp đơn giản, chẳng hạn như tránh ở nơi công cộng và kín, che miệng khi ho và rửa tay thường xuyên. Ngoài ra, trong trường hợp ho gà và bệnh lao, việc phòng ngừa cũng có thể được thực hiện thông qua tiêm chủng, phải được thực hiện ngay sau khi sinh, trong trường hợp vắc-xin BCG ngăn ngừa bệnh lao, hoặc từ 2 tháng tuổi trở đi, đó là vắc-xin được gọi là DTPA, bảo vệ chống lại bệnh ho gà, bạch hầu và uốn ván, đây cũng là những bệnh do vi khuẩn gây ra. Tìm hiểu thêm về vắc-xin DTPA.
6. Salmonellosis
Salmonellosis, hay ngộ độc thực phẩm, là một bệnh gây ra bởi Salmonella sp., có thể có được thông qua việc tiêu thụ thực phẩm và nước, ngoài việc tiếp xúc với động vật bị nhiễm vi khuẩn. Nguồn chính của Salmonella sp. Chúng là những động vật được nuôi trong các trang trại, chẳng hạn như bò, lợn và gà. Do đó, các loại thực phẩm có thể thu được từ những động vật này, chẳng hạn như thịt, trứng và sữa, tương ứng với nguồn lây nhiễm salmonellosis chính..
Triệu chứng chính: Triệu chứng nhiễm trùng bởi Salmonella sp. Chúng xuất hiện 8 đến 48 giờ sau khi tiếp xúc với vi khuẩn, với nôn mửa, buồn nôn, đau bụng, sốt, nhức đầu, khó chịu và ớn lạnh. Trong một số trường hợp, tiêu chảy và máu trong phân cũng có thể được chú ý.
Cách điều trị: Việc điều trị nhiễm khuẩn salmonella thường không được thực hiện khi sử dụng kháng sinh, thường được bác sĩ chỉ định để thay thế chất lỏng, để tránh mất nước, rất phổ biến ở người già và trẻ em, và kiểm soát buồn nôn, nôn và đau..
Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, khi các triệu chứng vẫn tồn tại và nhiễm trùng máu do nghi ngờ vi khuẩn này, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm có thể đề nghị sử dụng kháng sinh, chẳng hạn như fluoroquinolones hoặc azithromycin, ví dụ.
Cách phòng ngừa được thực hiện: Phòng chống lây nhiễm bởi Salmonella sp., nó được thực hiện chủ yếu thông qua các biện pháp vệ sinh cá nhân và thực phẩm. Đó là, điều quan trọng là phải rửa tay tốt sau khi tiếp xúc với động vật và trước và sau khi chuẩn bị thức ăn, đặc biệt là khi chúng còn sống.
7. Leptospirosis
Leptospirosis là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi vi khuẩn thuộc chi Leptospira, có nhiễm trùng xảy ra thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nước tiểu, phân hoặc chất tiết bị nhiễm vi khuẩn. Bệnh này phổ biến hơn xảy ra trong thời kỳ mưa, vì nước tiểu và phân của chuột, chó hoặc mèo, được lan truyền khắp nơi, tạo điều kiện cho vi khuẩn lây nhiễm..
Triệu chứng chính: Các triệu chứng của bệnh leptospirosis thường xuất hiện sau khoảng 5 đến 14 ngày sau khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua màng nhầy hoặc vết thương ngoài da và có thể gây ra các triệu chứng như đau đầu, đau cơ, sốt cao, ớn lạnh, đau mắt đỏ và buồn nôn. trong một số trường hợp, vi khuẩn có thể xâm nhập vào máu và lây lan sang các mô khác, bao gồm não, gây ra các triệu chứng nghiêm trọng hơn như khó thở và ho ra máu.
Ngoài ra, do sự tồn tại của vi khuẩn của sinh vật, có thể có sự thiếu hụt và do đó, suy thận, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của con người.
Cách điều trị: Hình thức điều trị chính là thông qua kháng sinh, cần được chỉ định ngay khi xuất hiện triệu chứng. Thông thường, bác sĩ truyền nhiễm khuyến cáo sử dụng Amoxicillin trong 7 đến 10 ngày và, trong trường hợp bệnh nhân dị ứng với kháng sinh này, Erythromycin được khuyến cáo. Ngoài ra, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, chức năng thận phải được theo dõi và có thể cần phải lọc máu.
Mặc dù nó không phải là bệnh có thể truyền từ người sang người, nhưng người được chẩn đoán mắc bệnh Leptospirosis nên nghỉ ngơi và uống đủ nước để phục hồi nhanh hơn..
Cách phòng ngừa được thực hiện: Để tránh bệnh leptospirosis, nên tránh những nơi có khả năng bị ô nhiễm, chẳng hạn như bùn, sông, nước đọng và những nơi bị ngập lụt, ví dụ. Ngoài ra, trong trường hợp làm ngập nhà chẳng hạn, nên rửa tất cả đồ đạc và sàn nhà bằng thuốc tẩy hoặc clo.
Một điều cũng quan trọng là tránh tích lũy rác tại nhà và tránh tích tụ nước, vì ngoài việc tránh bệnh leptospirosis, các bệnh khác được tránh, chẳng hạn như sốt xuất huyết và sốt rét chẳng hạn. Tìm hiểu về các hình thức phòng ngừa bệnh leptospirosis khác.