H. Pylori điều trị, truyền và chẩn đoán
H. pylori, hoặc Helicobacter pylori, là một loại vi khuẩn có thể tồn tại trong dạ dày hoặc ruột và có thể gây tổn thương hàng rào bảo vệ, kích thích viêm, có thể gây ra các triệu chứng như đau bụng và cảm giác nóng rát, làm tăng nguy cơ phát triển loét và ung thư.
Vi khuẩn này thường được xác định trong khi nội soi thông qua sinh thiết hoặc thông qua xét nghiệm urease, đây là phương pháp phổ biến nhất để phát hiện vi khuẩn.
Omeprazole, Clarithromycin và Amoxicillin, theo chỉ định của bác sĩ đa khoa hoặc bác sĩ tiêu hóa, cũng được khuyến cáo. Điều rất quan trọng là phải tuân theo chế độ ăn kiêng có thể giúp giảm các triệu chứng viêm dạ dày và vì vậy nên dựa vào rau, thịt trắng và bạn nên tránh nước sốt, gia vị và thực phẩm công nghiệp.
Làm thế nào là điều trị được thực hiện
Nó là rất phổ biến để có H. pylori vi khuẩn không có triệu chứng, thường được tìm thấy trong một xét nghiệm thông thường. Tuy nhiên, việc điều trị chỉ được chỉ định khi có một số tình huống, như:
- Loét dạ dày tá tràng;
- Viêm dạ dày;
- Khối u ruột, loại ung thư biểu mô hoặc u lympho dạ dày;
- Các triệu chứng, chẳng hạn như khó chịu, nóng rát hoặc đau dạ dày;
- Tiền sử gia đình bị ung thư dạ dày.
Điều này là do sử dụng kháng sinh không cần thiết làm tăng cơ hội kháng vi khuẩn và gây ra tác dụng phụ. Xem những gì nên ăn để tránh những tác dụng phụ này và những thực phẩm giúp chống lại H. pylori.
Thuốc để điều trị H. pylori
Thuốc thường được kê đơn nhất để chữa H. pylori là sự kết hợp của một lá chắn dạ dày, có thể là Omeprazole 20mg, Ianzoprazole 30mg, Pantoprazole 40mg hoặc Rabeprazole 20mg, với kháng sinh, thường là Clarithromycin 500mg, Amoxicillin 1000mg hoặc Metronidazole 500mg, có thể được sử dụng riêng rẽ như thuốc viên P.
Điều trị này nên được thực hiện trong khoảng thời gian 7 đến 14 ngày, 2 lần một ngày hoặc theo hướng dẫn y tế và phải được tuân thủ nghiêm ngặt để tránh sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc.
Các lựa chọn kháng sinh khác có thể được sử dụng trong các trường hợp nhiễm trùng kháng điều trị là Bismuth subsalicylate, Tetracycline, Tinidazole hoặc Levofloxacin.
Điều trị tại nhà
Có những lựa chọn thay thế tại nhà có thể bổ sung cho điều trị bằng thuốc vì chúng giúp kiểm soát các triệu chứng dạ dày và kiểm soát sự phát triển của vi khuẩn, nhưng chúng không thay thế điều trị y tế.
Việc tiêu thụ thực phẩm giàu kẽm như hàu, thịt, mầm lúa mì và ngũ cốc, ví dụ, ngoài việc tăng cường hệ thống miễn dịch, tạo điều kiện cho việc chữa lành vết loét và giảm viêm dạ dày.
Các loại thực phẩm có thể giúp loại bỏ vi khuẩn trong dạ dày là sữa chua tự nhiên, vì nó giàu men vi sinh, hoặc húng tây và gừng, vì chúng có đặc tính kháng khuẩn cũng có thể là một cách tuyệt vời để giúp điều trị.
Ngoài ra, có những thực phẩm có thể giúp kiểm soát độ axit và giảm bớt sự khó chịu do viêm dạ dày, chẳng hạn như chuối và khoai tây. Xem một ví dụ về thực đơn ăn kiêng cho viêm dạ dày và loét.
Nó được truyền đi như thế nào
Nhiễm trùng với H. pylori vi khuẩn rất phổ biến; có bằng chứng cho thấy nó có thể bị bắt qua nước bọt hoặc tiếp xúc bằng miệng với nước và thực phẩm đã tiếp xúc với phân bị ô nhiễm, nhưng sự lây truyền của nó vẫn chưa được làm rõ.
Vì vậy, để ngăn ngừa nhiễm trùng này, điều quan trọng là phải giữ vệ sinh, chẳng hạn như rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, và tránh chia dao kéo và kính với người khác..
Cách xác định và chẩn đoán
Nó là rất phổ biến để bị nhiễm trùng do vi khuẩn này, mà không có sự hiện diện của các triệu chứng. Tuy nhiên, nó có thể phá hủy hàng rào tự nhiên bảo vệ các thành bên trong của dạ dày và ruột, trải qua các tác động của axit dạ dày, ngoài ra còn làm tăng tình trạng viêm của các mô ở khu vực này. Điều này gây ra các triệu chứng như:
- Đau hoặc cảm giác nóng rát ở dạ dày;
- Thiếu thèm ăn;
- Buồn nôn;
- Nôn;
- Phân có máu và thiếu máu, là kết quả của sự xói mòn của các bức tường của dạ dày.
Chẩn đoán sự hiện diện của H. pylori thường được thực hiện với một bộ sưu tập mô sinh thiết từ dạ dày hoặc tá tràng, trong đó các xét nghiệm phát hiện vi khuẩn như xét nghiệm urease, nuôi cấy hoặc đánh giá mô có thể được thực hiện.
Các xét nghiệm khác có thể là xét nghiệm phát hiện hô hấp urê, xét nghiệm huyết thanh học hoặc xét nghiệm phát hiện phân.